Dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi): Nhiều ý kiến đã được tiếp thu, hoàn thiện
Chiều 09/5, tại Nhà Quốc hội, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường tổ chức Phiên họp toàn thể lần thứ 6 về nội dung thẩm tra dự án Luật tài nguyên nước (sửa đổi). Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy và Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Nguyễn Thị Lệ Thủy đồng chủ trì Phiên họp.
Tham dự Phiên họp còn có các Phó Chủ nhiệm, Ủy viên của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Ủy viên của Ủy ban cùng đại diện Hội đồng Dân tộc, lãnh đạo các Ủy ban của Quốc hội; Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trưởng Lê Công Thành cùng một số Bộ, ngành liên quan; các chuyên gia, nhà khoa học...
Phát biểu tại Phiên họp, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy cho biết, thực hiện chương trình công tác năm 2023 và chuẩn bị các nội dung trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 5 tới, vào chiều nay (9/5) Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường tổ chức Phiên họp toàn thể lần thứ 6 để thẩm tra dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến lần đầu.
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy phát biểu tại Phiên họp.
Báo cáo tại Phiên họp, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trưởng Lê Công Thành cho biết, Luật Tài nguyên nước năm 2012 đã được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 21/6/2012. Qua hơn 10 năm thực hiện, Luật Tài nguyên nước năm 2012 đã góp phần tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức, hành động của toàn xã hội về bảo vệ, khai thác sử dụng tài nguyên nước; tài nguyên nước được quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững hơn, mang lại nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, một số quy định của Luật 2012 còn giao thoa, chồng chéo với các luật khác dẫn đến khó thực hiện hoặc lãng phí nguồn lực. Đồng thời, thiếu khung pháp lý cho an ninh nguồn nước, đặc biệt là vấn đề bảo đảm an ninh nước cho sinh hoạt; thiếu quy định cụ thể liên quan đến điều hòa, phân bổ nguồn nước, giám sát chặt chẽ các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước; vấn đề bổ sung nhân tạo nước dưới đất; vấn đề giảm thiểu ngập lụt đô thị, định giá đầy đủ giá trị của tài nguyên nước; một số điều kiện kinh doanh không còn phù hợp; chưa có cơ chế, chính sách minh bạch, rõ ràng để tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích các nguồn lực xã hội của các thành phần kinh tế, các tổ chức chính trị - xã hội thuộc phạm vi trách nhiệm của Bộ, ngành, địa phương; một số nội dung phát sinh mới trong thực tiễn nhưng pháp luật chưa có quy định điều chỉnh.
Toàn cảnh Phiên họp
Bên cạnh đó, việc thi hành pháp luật về tài nguyên nước ở một số nơi còn chưa nghiêm, việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm chưa được thực hiện tốt; các cơ chế tài chính, chế tài, công cụ kiểm soát, giám sát chưa hiệu quả; các cơ chế hợp tác, giải quyết các vấn đề nước xuyên biên giới còn chưa đồng bộ; một số nội dung của pháp luật có liên quan chưa thống nhất, đồng bộ với Luật Tài nguyên nước,…
Về quá trình xây dựng Luật, Thứ trưởng Lê Công Thành cũng cho biết, thực hiện Nghị quyết số 50/2022/QH15 ngày 13/6/2022 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2022, Chính phủ đã giao Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi). Thực hiện nhiệm vụ được giao Bộ Tài nguyên và Môi trường đã xây dựng dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) trên cơ sở tổng kết thực hiện Luật Tài nguyên nước năm 2012; Rà soát, đánh giá 48 bộ luật, luật, nghị quyết của Quốc hội có liên quan đến tài nguyên nước; Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế liên quan. Bên cạnh đó, Dự thảo đã được gửi lấy ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương và đăng tải công khai trên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ.
Về cách tiếp cận của dự thảo, Thứ trưởng Lê Công Thành cho biết, qua nghiên cứu kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, các quy định của Luật Tài nguyên nước mang tính tổng hợp, được tích hợp các quy định về quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước và phòng, chống tác hại do nước gây ra vào một bộ luật duy nhất và giao cho một cơ quan quản lý thống nhất. Tuy nhiên, qua rà soát 48 bộ luật, luật, nghị quyết của Quốc hội, cho thấy có nhiều Luật có quy định liên quan đến tài nguyên nước như Luật Thuỷ lợi, Luật Thuỷ sản, Luật Đê điều, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Phòng, chống thiên tai,... nếu dẫn chiếu hoặc sửa đổi những nội dung về tài nguyên nước tại các luật này để đưa vào dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) và giao cho một bộ quản lý sẽ không khả thi và gây xáo trộn công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước từ Trung ương đến địa phương.
Vì vậy, để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, hạn chế mức thấp nhất sự giao thoa, chồng chéo, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã xây dựng dự thảo Luật theo hướng quy định tất cả các nội dung về quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng, chống tác hại do nước gây ra đã được quy định tại các Luật khác. Theo đó, dự thảo Luật đã quy định cụ thể trách nhiệm của các Bộ, ngành như Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Y tế, Bộ Tài chính... theo đúng chức năng nhiệm vụ đã được giao tại các luật có liên quan đến tài nguyên nước để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất.
Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Lê Công Thành giải trình những vấn đề các đại biểu quan tâm, đóng góp ý kiến đối với dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi).
Dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) bám sát vào 04 chính sách đã được Quốc hội thông qua tại Nghị Quyết số 50/2022/QH15 ngày 13/6/2022, gồm: Bảo đảm an ninh nguồn nước; Xã hội hóa ngành nước; Kinh tế tài nguyên nước; Bảo vệ tài nguyên nước, phòng chống tác hại do nước gây ra và đề xuất sửa đổi bổ sung một số chính sách khác.
“Trong quá trình xây dựng dự thảo Luật không bổ sung chính sách mới. Dự thảo Luật Tài nguyên nước sửa đổi gồm 83 điều và được bố cục thành 10 chương. So với Luật Tài nguyên nước năm 2012, dự thảo Luật không tăng về số chương (trong đó giữ nguyên 9 điều; sửa đổi, bổ sung 59 điều; bổ sung mới 15 điều) và bãi bỏ 13 điều” - Thứ trưởng Lê Công Thành cho biết.
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Nguyễn Thị Lệ Thủy.
Thay mặt cơ quan thẩm tra, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Nguyễn Thị Lệ Thủy cho biết, để phục vụ việc thẩm tra, Thường trực Ủy ban KH,CN&MT đã tổ chức các đợt khảo sát thực tế, hội thảo, tọa đàm tham vấn chuyên gia, nhà khoa học; lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức liên quan và Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội về nội dung dự án Luật tài nguyên nước (sửa đổi). Qua tổng hợp các ý kiến góp ý cho thấy, việc sửa đổi Luật tài nguyên nước là cần thiết, giúp hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý tài nguyên nước trong bối cảnh cần tăng cường bảo đảm an ninh nguồn nước, khắc phục những bất cập, tồn tại trong công tác quản lý TNN và yêu cầu hội nhập quốc tế trong quản lý tài nguyên nước.
“Nhiều ý kiến tán thành với phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật để quản lý toàn diện các hoạt động liên quan đến TNN. Với phạm vi điều chỉnh như vậy thì tên gọi Luật Tài nguyên nước là phù hợp, với hàm ý nhằm nâng cao nhận thức về nước là tài nguyên quan trọng thiết yếu, là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước thống nhất quản lý, cần phải được sử dụng một cách bền vững, tiết kiệm, hiệu quả” - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Nguyễn Thị Lệ Thủy nhấn mạnh.
Nội dung dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) đã thể chế hóa tương đối đầy đủ quan điểm, định hướng đổi mới của Đảng và Nhà nước về quản lý tài nguyên nước, đặc biệt là Kết luận số 36-KL/TW ngày 23/6/2022 của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 nhằm góp phần bảo đảm an ninh nguồn nước, phòng chống ô nhiễm nước và phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt; đổi mới và hoàn thiện hành lang pháp lý về quản lý TNN; khai thác, sử dụng hiệu quả TNN theo hướng quản trị nước, đẩy mạnh xã hội hoá ngành nước và áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý tài nguyên nước.
Để sửa đổi Luật, Chính phủ đã rà soát 48 luật, bộ luật, Nghị quyết, 02 điều ước quốc tế có liên quan, trong đó có 11 luật liên quan trực tiếp. Vì thế, nhìn chung các quy định cơ bản bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất với hệ thống pháp luật hiện hành và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
Về tính khả thi của dự án Luật, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Nguyễn Thị Lệ Thủy cho biết, dự án Luật đã được xây dựng trên cơ sở kế thừa Luật tài nguyên nước 2012, tổng kết thi hành Luật Tài nguyên nước và rà soát, đối chiếu với các luật có liên quan. Do đó, về cơ bản các quy định của Luật đảm bảo tính khả thi. Tuy nhiên, trong dự án Luật còn 20/83 điều giao cho Chính phủ quy định chi tiết nên đề nghị Ban soạn thảo tiếp tục rà soát cụ thể hóa tối đa trong Luật.
Đại biểu Nguyễn Quang Huân – Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bình Dương đề cập về sự thống nhất giữa quy hoạch cấp tỉnh với quy hoạch về nước.
Phát biểu tại Phiên họp, đại biểu Nguyễn Quang Huân - Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bình Dương bày tỏ thống nhất với ý kiến của cơ quan thẩm tra. Theo đó, rất nhiều ý kiến góp ý đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường tiếp thu, đưa vào dự thảo Luật tài nguyên nước (sửa đổi). Đề cập về sự thống nhất giữa quy hoạch cấp tỉnh với quy hoạch tài nguyên nước quốc gia, đại biểu Nguyễn Quang Huân cho rằng, cần xem xét trường hợp khi Luật này ban hành, có sự khác nhau giữa các quy định mới và các quy hoạch đã xây dựng theo Luật Quy hoạch. Về dòng chảy tối thiểu, cần xem xét các nguồn nước từ ngoại tỉnh, từ nước ngoài hoặc bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu dẫn đến không thể đảm bảo dòng chảy tối thiểu thì phải làm thế nào (?). Bên cạnh đó, cần làm rõ hơn khái niệm và nội dung khai thác, sử dụng nước tiết kiệm.
Cho ý kiến về nội dung trên, đại biểu Nguyễn Thanh Phương - Đoàn Đại biểu Quốc hội Thành phố Cần Thơ băn khoăn về việc các địa phương thực hiện quy hoạch về nước khi quy hoạch cấp tỉnh được đề cập trước. Để tránh việc các địa phương phải “chạy đua” với quy hoạch nước gấp rút với quy hoạch cấp tỉnh, Ban soạn thảo và cơ quan thẩm tra dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) cần xem xét kỹ lưỡng đến nội dung thống nhất giữa quy hoạch tài nguyên nước cấp tỉnh với quy hoạch tài nguyên nước quốc gia hoặc có sự điều chỉnh cho phù hợp.
Đại biểu Lã Thanh Tân - Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng nêu quan điểm tại Phiên họp.
Đại biểu Lã Thanh Tân - Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng góp ý, về phạm vi điều chỉnh, dự thảo Luật tài nguyên nước (sửa đổi) mới đề cập đến nguồn nước tự nhiên, chưa quan tâm đến nguồn nước tái tạo, do vậy, cơ quan soạn thảo cần xem xét bổ sung nội dung này để đảm bảo tính toàn diện. Bên cạnh đó, cần bổ sung, làm rõ thêm các tiêu chí để xác định chức năng nguồn nước; làm rõ hơn các mục đích khai thác, sử dụng, nêu rõ điều kiện nào thì phải cấp phép, cơ quan nào có thẩm quyền cấp phép.
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Tạ Đình Thi.
Trong khuôn khổ Phiên họp, các đại biểu còn cho ý kiến về đảm bảo an ninh nguồn nước. Theo Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Tạ Đình Thi, trong quá trình hoàn thiện dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) để trình Quốc hội xem xét cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 5 tới, Ban soạn thảo dự án Luật cần tiếp tục rà soát các luật liên quan trực tiếp đến Luật Tài nguyên nước để tránh mâu thuẫn, không thống nhất. Ngoài ra, liên quan đến đảm bảo an ninh nguồn nước, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Tạ Đình Thi cho rằng, cần quy định rõ trách nhiệm các Bộ ngành, cơ quan đối với vấn đề này.
Giải trình tại Phiên họp, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Lê Công Thành khẳng định tầm quan trọng của việc sửa đổi Luật Tài nguyên nước; sự cần thiết phải cập nhật, thể chế hóa quan điểm, chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước về quản lý, bảo vệ tài nguyên nước. Trong đó, nghiên cứu xây dựng Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) theo hướng bổ sung, hoàn thiện các chính sách đã ban hành và nghiên cứu tích hợp các quy định về quản lý nước trong một luật về nước để quản lý, kiểm soát, điều tiết các vấn đề về nước trên cơ sở thống nhất quản lý về tài nguyên nước; đồng thời phân công, phân cấp rõ trách nhiệm quản lý nhà nước về nguồn nước và trách nhiệm quản lý xây dựng, vận hành công trình khai thác, sử dụng nước.
Đối với đề nghị rà soát các quy định về điều tra cơ bản, chiến lược, quy hoạch tài nguyên nước; bố cục, sắp xếp lại các quy định về các loại quy hoạch trong dự thảo Luật, Chính phủ đã rà soát các quy định về điều tra cơ bản, chiến lược, quy hoạch tài nguyên nước để đảm bảo phù hợp với thực tiễn, thống nhất với các luật khác. Đồng thời, bố cục, sắp xếp lại các quy định về quy hoạch về tài nguyên nước trong dự thảo Luật bảo đảm logic và thống nhất; lồng ghép quy định về quy hoạch tài nguyên nước; bổ sung quy định Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức lập danh mục lưu vực sông liên tỉnh trình Thủ tướng Chính phủ ban hành; lập, ban hành danh mục lưu vực sông nội tỉnh, danh mục nguồn nước liên tỉnh, liên quốc gia.
Về những nội dung khác liên quan đến đến việc sửa đổi Luật Tài nguyên nước, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Lê Công Thành cho biết, Bộ sẽ tiếp thu tất cả những ý kiến, đề xuất trong quá trình hoàn thiện dự án Luật này.
Phát biểu kết luận Phiên họp, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy đánh giá cao những ý kiến đóng góp của các đại biểu đối với việc hoàn thiện dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi); đồng thời khẳng định dự án Luật đủ điều kiện để trình Quốc hội xem xét, đóng góp ý kiến tại Kỳ họp thứ 5 vào tháng 5/2023.
Trong Phiên họp, các đại biểu tập trung vào một số vấn đề lớn như: Thể chế hóa quan điểm, chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước về quản lý, bảo vệ tài nguyên nước; sự đồng bộ giữa Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) với những luật liên quan khác; phạm vi điều chỉnh của dự án Luật; phân định rõ trách nhiệm của cơ quan Nhà nước đối với quản lý tài nguyên nước...
Để dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) trình lên Quốc hội xem xét, cho ý kiến đạt chất lượng tốt nhất, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy yêu cầu Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng các Bộ ngành liên quan tiếp thu ý kiến tối đa ý kiến của các đại biểu Quốc hội, chuyên gia, nhà khoa học; đồng thời chỉ đạo Tiểu ban Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tập hợp các ý kiến, đề xuất của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban khác của Quốc hội phục vụ cho việc hoàn thiện báo cáo thẩm tra đối với dự án Luật này để trình Quốc hội đóng góp ý kiến trong Kỳ họp thứ 5 tới.